Sau những chuyến tàu đi tìm chị của ba rong ruổi thì trong chính ngôi nhà những bữa cơm có một cảm giác thiếu thốn chạy dọc sống lưng.
Dù có những thăng trầm lên thác xuống gềnh trong nôi của gia đình bạn thì con người ai sinh ra và lớn lên cũng cần một sự chan chứa yêu thương. Nơi ấy sẽ có sự che chở từ vòng tay ba mẹ, nơi ấy sẽ là nơi chắp cánh cho bạn, nơi ấy là động lực để bạn cố gắng mỗi ngày, đó là điểm tựa là sự kết nối thiêng liêng của dòng họ, ông bà và chính bạn, nơi mà ta có tuổi thơ dưới ánh trăng làng quê, hay sự phồn hoa của thành phố thì sự sum vầy ấm áp đó sẽ cho ta lớn khôn mỗi ngày, nơi in dấu chân ta trên đường đi học, đi làm, bờ tre bụi cỏ. Con sông quê soi mình tắm mát, gia đình là sự thân thương ruột thịt là dấu ấn không phai.
Trí nhớ tuổi thơ từ ngày bập bẹ biết nói, biết đi rồi những ánh mắt của những người xung quanh, hay ánh mắt người chị nho nhỏ hơn mình mười mấy tháng tuổi à ơi vỗ về. Lớn lên tôi đã có chị là niềm hạnh phúc biết bao.
Nơi ấy có động lực cùng buồn, cùng vui cùng chia sẽ, cùng ôm nhau khóc dù không có đủ vật chất, nhưng giá trị tinh thần cùng bước gập ghềnh bên nhau mười mấy năm đầu đời. Bữa cơm trong gia đình là lúc phải đếm, đếm cho đủ các thành viên, ngày chị đi mâm cơm đã thiếu một chỗ ngồi.
Văn hóa ăn xem nồi ngồi xem hướng: Mâm cơm đối với gia đình là một nét ứng xử văn hóa đặc biệt đối với mọi gia đình chúng ta, tuy nhiên những vị trí quan trọng, thuận lợi trong khi ăn, thường được nhường cho người lớn tuổi, tôi và chị thường thay phiên nhau xới cơm, phục vụ thức ăn cho cả gia đình. Chú ý thức ăn cho các em, “ăn cho đều, kêu cho rõ” nên các em được hướng dẫn dùng từng phần riêng trật tự. Ngày có bà nội đến ở với gia đình tôi thì phải chọn phần cơm mềm dẻo dành cho bà, nấu cơm tôi thường nghiêng ngồi về một phía để cho cơm mềm hơn.
Nhà tôi cũng có một giai đoạn bố trí mâm cơm, ông, bà và ba ngồi một mâm ở nhà trên, mẹ và các con, ngồi mâm ở dưới nhà bếp, khi bà ra ở cùng.
Trước và sau khi ăn, mời ăn, điều này thể hiện lễ giáo và sự kính trọng với người trên. Theo tục lệ xưa, khi ngồi vào mâm cơm, trước khi bưng bát, cầm đũa thì phải “mời cơm”, người ít tuổi mời những người nhiều tuổi hơn.
Sau khi mời xong rồi, người lớn tuổi nhất cầm chén lên thì những người khác mới cầm chén đũa của mình lên ăn. Và khi ăn xong lại mời, thường đại ý là: “Mời mọi người ăn ngon miệng, con (cháu) xin phép, lời mời là sự kính trọng lễ phép đối với các bậc cha mẹ, ông bà.
Văn hóa nói năng trong bữa ăn: trong bữa ăn gia đình phải tránh quở trách, nhắc nhở những khuyết điểm, không cãi nhau, không nên nói những chuyện gây sốc, nặng nề… mà chỉ nói về những chuyện vui vẻ, những dự định tương lai và thể hiện tình cảm quan tâm, chia sẻ, động viên với những thành viên khác trong gia đình.
Văn hóa từ tốn trong bữa ăn: tốc độ ăn, uống, chúng tôi thường được ba, mẹ nhắc nhở không ăn quá nhanh hay quá chậm. Ngồi quá lâu và ăn quá nhiều hoặc quá ít, không ăn hết nhẵn hoặc bỏ dở.
Văn hóa ví von sự đoàn kết: là triết lý về tính số đông. Bó đũa là biểu tượng của sự đoàn kết, của tính cộng đồng. “Vơ đũa cả nắm” là nói đến thói cào bằng xô bồ, tốt xấu không phân biệt… “Bó đũa chọn cột cờ” nói về việc chọn người nổi trội nhất trong đám đông...
Văn hóa dùng đũa: của các thành viên rất kỵ đũa lệch. Khi gắp thức ăn cho người khác phải trở đầu đũa hoặc có một đôi đũa dùng chung. Việc tập dùng đũa làm sao cho đẹp, cho khéo, gắp thức ăn, và cơm làm sao tránh rơi rớt, tạo tiếng kêu cũng là một chỉ dấu của giáo dục văn hóa gia đình.
Văn hóa thức uống: trong bữa ăn đồ uống trong và sau bữa ăn. Không phong phú các đồ uống trong và sau bữa ăn như một số dân tộc khác, người Việt thường chỉ uống rượu trong bữa ăn và uống chè xanh, trà sau bữa ăn.
Đối với rượu, các gia đình thường có rượu ngâm thuốc để phục vụ người già và trung niên và mỗi bữa ăn, mỗi người chỉ uống một vài chén theo phong cách uống thuốc bổ. Khi có món nhấm ngon, có thể uống hơn nhưng không quá đà. Còn uống sau bữa ăn có chè xanh, nước vối hoặc trà, con cháu thường phải mời ông, bà, cha mẹ uống sau khi ăn rồi mới đến lượt mình.
Văn hóa tăm xỉa răng: Sau bữa cơm, bao giờ cũng dùng tăm xỉa răng. Đây là tập quán được giải thích từ nhiều cách khác nhau như: về mặt biểu tượng là thể hiện sự no đủ, hay chỉ dấu cho người đối diện thấy mình mới dùng bữa xong hoặc cho rằng, xỉa răng là hậu quả của việc bỏ tục ăn trầu nhuộm răng như bà ngoại tôi.
Văn hóa tư duy về lương thực: “Có thực mới vực được đạo”, phản ánh lối suy tư rất thực tiễn của con người là: “Dĩ thực vi tiên”. Hay khi mời khách đến nhà dùng bửa lại lấy “Miếng trầu là đầu câu chuyện” và nhận ra ăn uống có tính chất linh thiêng “Trời đánh tránh bữa ăn”.
Chị và tôi, đều học thuộc những điều tôn kính tổ tiên qua “đạo ăn”: cách ngồi ăn, cách cư xử với người lớn tuổi hay trong nhà có khách quý, đặc biệt mỗi lần được ông, bà hay các cậu ghé thăm nhà. Gia đình còn một mình tôi lớn từ ngày chị đi, khi ngồi vào mâm cơm lại thầm ước cả nhà đang ăn bất chợt chị gái từ ngõ bước vào. Ngày qua ngày và cứ đợi, cứ mong để chỗ ngồi chị không vắng bóng..
Ngồi xuống mâm cơm mẹ thường đứng dậy bất chợt, rồi đi vội ra sau hè nhà, linh cảm tôi biết rằng mẹ cố tình tránh ánh mắt cả nhà và khóc. Lúc quay lại mẹ giả vờ không có chuyện gì để cho chị em tôi tiếp bước trên con đường thành người, ba, mẹ hai người họ nén nỗi đau thật tài.
Bữa cơm hôm nay trở đi đã khác, trong bát cơm có vị mặn của giọt nước mắt không kìm lại được, đôi lúc mẹ òa khóc. Tình yêu thương của mẹ dành cho những người thân trong gia đình được mẹ cân nhắc lại. Gần như mẹ đã thay đổi, bữa cơm quê có những ngày không có thức ăn nhiều tôi và chị mang cái xủi ra đồng đi một vòng các ruộng lúa và mang về cả oi cá, cua đồng tôm tép lẫn lộn món ăn lúc ấy đậm đà hương vị. Những ngày hè oi ả, mâm cơm quê với canh rau muống, canh mùng tơi nấu cua đồng, quả cà pháo muối sổi, đĩa cá rô đồng kho quả sung, đậm đà hương vị.
Những năm trước vào dịp rét tháng 11, nhiệt độ thấp làm cho tay chân như cứng lại nhưng tôi và chị vẫn rủ nhau đi bắt cua đồng về nấu bát canh nóng hổi với dọc mùng, khi ăn nóng ấm và ngon.... Đơn giản sau những buổi làm việc vẫn có tiếng cười, hoặc nhìn nhau tủm tỉm cười, bửa cơm đạm bạc đấy nhưng ấm nghĩa tình.
Mỗi bữa cơm là sự kết nối, nhân lên tình cảm gia đình, cũng là lúc mà ba, mẹ thường ngồi răn dạy chúng tôi cách học hành, cách đi đứng cư xử với người ngoài, trong họ hàng, tình nghĩa chị em cho những đứa con tình yêu thương, sự chăm sóc về cách nói, cách ăn và những điều ứng xử trong bữa ăn, khi lớn tôi vẫn cứ đinh ninh lời dặn dò của ba mẹ mỗi khi cầm bát cơm lên ăn. (Ăn xem nồi, ngồi xem hướng).
Chỗ ngồi của chị nay vắng rồi. Mẹ và ba cứ âm thầm ít nói hơn, nhưng trong lòng hai người biết rõ không để cho kế mưu sinh lại cướp đi những đứa còn lại, nên cấm tôi không cho đi theo đám bạn bán rau hay chặt củi trên rừng về nữa.
Giữa cái khó khăn của cuộc sông đống việc ngổn ngang khi vụ mùa đến, tôi phải cố gắng gấp bội, trước đây tôi không biêt gánh, chị làm hết.
Tiếng còi tàu qua ga luôn làm cả nhà tôi xác xơ mong chờ chị quay về để bửa cơm đầy đủ các thành viên.
Bữa cơm gia đình, không gian sinh thành nên suối nguồn yêu thương, nơi kết nối tình cảm gia đình, là kí ức không phai nhạt trong tâm hồn mỗi con người. Nhưng giờ đây với tôi la sự dày vò và chờ đợi.
Xảy ra chuyện lớn: lạc mất con nhưng ba, mẹ đã nuốt dần nước mắt không gục ngã, nhưng tôi biết thêm 1 ngày thì càng xé nát ruột gan họ nếu chị không về, Mất thăng bằng là mất nốt điểm tựa cho những đứa con còn lại.